Phân bố Tiếng_Bố_Y

Trung Quốc

Theo một cuộc khảo sát năm 1950 do chính phủ Trung Quốc thực hiện, tiếng Bố Y được nói ở Quý Châu đại khái có thể chia thành ba nhóm phương ngữ (Snyder 2008). Lưu ý rằng Kiềm (黔) là một tên gọi cổ xưa tiếng Trung Quốc cho Quý Châu.

  1. Nhóm Nam Kiềm - nhóm lớn nhất trong ba nhóm - đến từ châu tự trị Bố Y và Miêu Kiềm Tây Nam, hầu hết đều dễ hiểu với phương ngữ Tráng Quế Biên.
  2. Nhóm Trung Kiềm - được nói nhiều nhất trong ba nhóm - được lan truyền khắp châu tự trị Bố Y và Miêu Kiềm Nam và vùng ngoại ô Quý Dương, và có thể hiểu được một phần với tiếng phương ngữ Nam Kiềm (nó rất giống với phương ngữ Tráng của miền bắc Quảng Tây).
  3. Nhóm Tây Kiềm - ít được nói nhất trong ba nhóm - nhiều đặc tính độc đáo hơn hai nhóm còn lại. Một số phương ngữ Tây có những âm tắc bật hơi, đó là một đặc điểm không phổ biến trong các ngôn ngữ Tai Bắc (Snyder 2008).

Wu, Snyder, & Liang (2007) là những người khảo sát Tiếng Bố Y toàn diện nhất cho đến nay.

Phương ngữ Tráng Quế Biên của Văn Sơn, Vân Nam có liên quan chặt chẽ với các phương ngữ của Quý Châu. Nhiều ngôn ngữ khác ngoài Trung Quốc với các tên "Yei", "Yay", "Yoy", cũng có liên quan.

Việt Nam

Tiếng Bố Y cũng được nói ở miền bắc Việt Nam, nó được gọi là tiếng Giáy.[4] Edmondson và Gregerson (2001) đã xác định ngôn ngữ của họ giống với phương ngữ Bố Y ở tây nam Quý Châu. Người Giáy là một nhóm được công nhận chính thức tại Việt Nam, hiện có số lượng gần 50.000 người. Một số hộ gia đình của người Giáy của Việt Nam cho biết rằng tổ tiên của họ đã rời khỏi Quý Châu cách đây 160 năm thời nhà Thanh, và di cư đến miền nam Vân Nam và sau đó là Việt Nam (Edmondson & Gregerson 2001). Điều này trùng hợp với cuộc nổi loạn Miêu (1854-73) ở Quý Châu. Người Giáy được tìm thấy ở các địa điểm sau của Việt Nam.[5]

Người Giáy ở huyện Mường Khương tự gọi mình là Tudì [ thu zi ] chỉ có thể nói một dạng tiếng Trung, và không nói tiếng Giáy. Tên tự gọi của họ xuất phát từ nơi tổ tiên của họ, đó là Đô Quân của tỉnh Quý Châu, Trung Quốc. Theo lý lịch hộ tịch, họ đã đến Mã Quanchâu Hồng Hà khoảng 200 năm trước. Tương tự, một số người Giáy nói rằng họ có người thân vẫn sống ở Hà Khẩu, Vân Nam, Trung Quốc (Edmondson & Gregerson 2001).

Người Pu Nảhuyện Tam Đường, tỉnh Lai Châutự gọi mình là Vần Nả (với vần có nghĩa là 'người'), và số lượng khoảng 5.000 cá nhân (Lò 2012: 11-20). [6] Họ cũng được gọi là Quý Châu ( Quý Châu ), Sa Quý Châu, Củi Chu, Pu Y, hoặc Pâu Thìn . Người Pu Nả sống ở những ngôi làng sau của huyện Tam Đường (Lò 2012: 18):

  • Bản Giang
    • bản Coc Pa
    • bản Giang
    • bản Nà Bỏ
    • bản Nà Sài
    • bản Nà Cơ
    • bản Tẩn Phủ Nhiêu
  • Thèn Xin
    • bản Lở Thàng
    • Thèn Xin
  • San Thàng
    • bản Tả Xin Chải
    • Xéo Xin Chải
    • Phan Lỉn

Tiếng Yay được mô tả bởi William J. Gedney trên thực tế là phương ngữ Giáy của Mường Hum, huyện Bát Xát, Lào Cai (Edmondson & Gregerson 2001). Ngoài ra còn có các ngôn ngữ Tai Bắc liên quan khác được sử dụng ở Việt Nam, như Bố Y, Nhang và Quy Châu (có thể liên quan chặt chẽ với Thái Mạn của Lào ). Người Bố Y ban đầu đến từ Vọng Mô ở tây nam Quý Châu. Một số nhóm nhỏ người Bố Y tự gọi mình là Pu Na hoặc Pu Thin, nghĩa là 'người ruộng'.